Đội ngũ cán bộ làm công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình ở quận, huyện, xã, phường sau hai năm thay đổi mô hình quản lý tổ chức cán bộ

Ngày 03/11/2014 Ủy ban nhân dân thành phố đã có Quyết định số 2384/QĐ-UBND về việc chuyển giao cán bộ dân số – kế hoạch hóa gia đình xã, phường, thị trấn về Trung tâm Dân số – Kế hoạch hóa gia đình quận, huyện và chuyển Trung tâm Dân số – Kế hoạch hóa gia đình quận, huyện thuộc Chi cục Dân số-Kế hoạch hoá gia đình về Ủy ban nhân dân quận, huyện quản lý. Hết tháng 12/2014, 223 cán bộ dân số xã, phường và 14 Trung tâm Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) đã được bàn giao nguyên trạng về trực thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện. Như vậy, Trung tâm Dân số-KHHGĐ sẽ chịu sự quản lý toàn diện và trực tiếp tham mưu cho UBND quận, huyện triển khai thực hiện chương trình mục tiêu dân số-KHHGĐ của quận, huyện; Cán bộ Dân số xã phường là viên chức của Trung tâm Dân số-KHHGĐ, có trách nhiệm giúp việc cho Trưởng ban chỉ đạo công tác Dân số-KHHGĐ xã, phường xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu DS-KHHGĐ trên địa bàn xã, phường. 
Tính đến hết tháng 11/2016 có 283 người là công chức, viên chức DS-KHHGĐ cấp huyện và xã. Trình độ đào tạo của đội ngũ cán bộ dân số đã từng bước được nâng lên. Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ cấp huyện có 5% trình độ trên đại học, 49% trình độ cao đẳng/đại học và 46% có trình độ trung cấp. Trình độ độ ngũ cán bộ cấp xã có 30% trình độ cao đẳng/đại học và 70% có trình độ trung cấp. 100% viên chức cấp huyện và cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi nghề theo Nghị định số 56/2011/NĐ-CP 
Đặc biệt tính đến tháng 11/2016 đã có trên 90% cán bộ DS-KHHGĐ cấp huyện, cấp xã có chứng chỉ đào tạo chương trình đạt chuẩn dân số. Nội dung đào tạo là những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ DS-KHHGĐ dành cho viên chức dân số, gồm: Dân số và phát triển, Thống kê DS-KHHGĐ, Truyền thông DS-KHHGĐ, Dịch vụ DS-KHHGĐ, Quản lý và tổ chức thực hiện công tác DS-KHHGĐ và Kiến thức Y học cơ bản. Ngoài các nội dung lý thuyết trên học viên còn được thực tập 06 tuần rèn luyện kỹ năng chuyên môn về DS-KHHGĐ tại cơ sở.
Toàn thành phố có hơn 3000 cộng tác viên (CTV) DS-KHHGĐ tại thôn, xóm, tổ dân phố. Đa số CTV là từ các ban, ngành tham gia. Số lượng CTV biến động hàng năm ước tính khoảng 20%. Việc ổn định đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ có ý nghĩa rất quan trong đối với sự thành công của chương trình.
Về thời gian tham gia làm CTV dân số, khoảng một nửa đội ngũ này có thâm niên công tác trên 5 năm. Số CTV có thời gian làm việc từ 2-5 năm cũng chiếm 28%. Chỉ có 22% CTV là có thời gian tham gia làm công tác này dưới 2 năm. Do biến động lớn về tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ các cấp vào năm 2008 dẫn đến nhiều thay đổi trong đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ ở địa phương, nhưng vẫn còn khoảng 60% CTV dân số vẫn tiếp tục làm việc, gắn bó và tâm huyết với công tác này. Số lượng 30-40% thay đổi là do chuyển đổi sang thực hiện nhiệm vụ khác hoặc không tiếp tục tham gia công tác dân số nữa.
Đặc điểm nổi bật của đội ngũ CTV là rất nhiều người kiêm nhiệm (chiếm 65%). Đây là những người đang làm các công việc khác và có hưởng lương hoặc phụ cấp từ công việc đó. Số CTV không kiêm nhiệm chỉ chiếm 35%. 
Trong số các CTV kiêm nhiệm, đa số là cán bộ phụ nữ và cán bộ y tế thôn bản. Đây cũng là hai ban ngành có liên quan nhiều đến công tác DS-KHHGĐ cả về chuyên môn y tế lẫn kỹ năng tuyên truyền, vận động, tư vấn, tiếp cận đối tượng và đồng thời có đội ngũ cán bộ rải đến tận thôn, xóm, tổ dân phố. Số CTV còn lại gồm cán bộ hưu trí tham gia công tác xã hội và cán bộ thanh niên. 
Về mức thù lao cho CTV dân số, thông tin thu thập được cho thấy ngoài tiền phụ cấp do Trung ương cấp về theo CTMTQG DS-KHHGĐ (Thông tư liên tich số 20/2013/TTLT-BTC-BYT ngày 20/02/2013 cửa Bộ Tài chính và Bộ Y tế Quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2012-2015) là 100.000đ/tháng, thành phố cũng có bổ sung thêm mức thù lao cho CTV dân số là 50.000đ/tháng. Như vậy, mức thù lao thấp được cho là nguyên nhân chính dẫn đến sự biến động thường xuyên của đội ngũ CTV dân số ở cơ sở, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của chương trình DS-KHHGĐ.
Sau hai năm được sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ thành phố đến các địa phương, công tác DS-KHHGĐ đã và đang từng bước được kiện toàn, ổn định, đặc biệt đội ngũ công chức, viên chức trong hệ thống làm công tác DS-KHHGĐ được tuyển dụng, sử dụng có hiệu quả đáp ứng được các nhu cầu của từng vị trí việc làm, có trình độ chuyên môn đào tạo cao từ đó làm cơ sở cho việc hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Trung ương và thành phố giao cho ngành DS-KHHGĐ. Đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ trong hệ thống y tế từng bước được chuẩn hoá, từng bước được thụ hưởng các chính sách, chế độ phụ cấp ưu đãi; các chương trình đào tạo chuẩn đã và đang được hình thành, tạo điều kiện cho việc xây dựng một đội ngũ có kiến thức và kỹ năng chuyên sâu để đảm nhiệm thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn được phân công./.

(Cao Thị Hạ, Chánh Văn phòng)

(Chánh văn phòng)